Page 17 - thong bao
P. 17

Duyên Nợ Truyền Tin - Hồi Ký - Nguyễn Huy Hùng

cấp bừa bãi vì nhu cầu tăng cường quân số hành quân của họ, sau khi tái xâm lăng Việt Nam từ
1946.

         Riêng tại miền Cao nguyên Trung phần Việt Nam (Banmêthuột, Pleiku, Kontum, Quảng
Đức, Tuyên Đức tức là Đà Lạt, và Blao) là vùng lãnh thổ được Quốc trưởng Bảo Đại coi là
Hoàng Triều Cương Thổ, có Bộ Tham mưu Chỉ huy Miền Cao nguyên do Sĩ quan Pháp cấp
Tướng chỉ huy, mãi đến năm 1954 mới chuyển giao cho Sĩ quan Việt Nam đảm nhận. Vị Tư lệnh
Việt Nam đầu tiên là Đại tá Linh Quang Viên (sắc tộc Tầy tức là Thổ, nguyên là Tri Huyện, con
ông Tuần phủ Linh Quang Vọng tại Lạng Sơn, từ thời Pháp thuộc trước năm 1945. Tôi đã quen
biết từ trước 1945, vì là bạn học cùng lớp Tiểu học và Trung học với các em ruột của Đại tá
Viên).

         Từ giữa năm 1950, một số Tiểu đoàn Việt Nam (lực lượng Chủ lực quân) bắt đầu được
thành lập, bằng cách tập hợp các Đại đội Bộ binh sẵn có do Pháp tuyển mộ, tổ chức, trang bị,
huấn luyến, trả lương và xử dụng tại mỗi miền lãnh thổ Việt Nam chuyển qua. Những đơn vị cấp
Đại đội này có những tên gọi khác nhau. Ở miền Bắc là các Đại đội Vệ binh Bắc Kỳ (Garde
Tonkinoise), Đại đội Vệ binh Duyên phòng miền Đông Bắc Kỳ (Garde Frontalière de l’Est
Tonkinois), Đại đội Biệt Kích (Commando), Đại đội Thân binh (Partisan), Đại đội Nùng, Đại đội
Thái. Ở miền Trung là các Đại đội Việt Binh Đoàn. Ở miền Nam là các Đại đội Vệ Binh Nam
Kỳ, và các đơn vị thuộc Lực lượng Giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên quy thuận Pháp.
Trên Cao Nguyên Trung phần là các Đại đội Sơn Cước (Compagnie Montagnarde).

         Ngoài các Tiểu đoàn Việt Nam (đơn vị Chủ lực quân) tại mỗi miền Bắc, Trung, Nam,
còn có các đơn vị Phụ Lực Quân địa phương, do các vị Thủ Hiến đại diện Quốc trưởng Bảo Đại
tại mỗi miền, tự tuyển mộ, tổ chức, huấn luyện, cung cấp quân trang, quản trị nhân số và lương
bổng, để xử dụng trong việc canh phòng giữ an ninh cho các Cơ sở và Chức quyền Hành Chánh
Tỉnh, Quận. Vũ khí đạn dược trang bị cho các đơn vị Phụ lực quân địa phương này cũng do quân
đội Pháp yểm trợ cung cấp, y như đối với các Tiểu đoàn Việt Nam, nhưng là loại vũ khí cũ lạc
hậu không còn dùng trong cấp số của các đơn vị Chủ lực.

         Thi hành Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 ký kết giữa Pháp và Việt Minh Cộng sản,
các đơn vị thuộc lực lượng Bảo Chính Đoàn tại Bắc Việt phải di chuyển vào miền Nam Vĩ tuyến
17, được cải danh là Bảo An Đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy quản trị của một Nha Tổng Giám đốc
trực thuộc Bộ Nội Vụ. Các đơn vị phụ lực quân này được chia về các Tỉnh để đảm trách việc
đóng đồn, và hành quân duy trì an ninh địa phương, dưới quyền kiểm soát của các vị Tỉnh
trưởng. Đến sau ngày Cách mạng 1-11-1963 lật đổ Tổng thống Diệm và nền Đệ Nhất Cộng hoà
tại miền Nam Việt Nam, các đại đội Bảo An Đoàn được cải danh thành đại đội Địa Phương
Quân, chuyển giao sang Bộ Quốc phòng trách nhiệm. Nha Tổng Giám đốc Bảo An Đoàn bị giải
tán để thành lập Bộ Tư lệnh Địa Phương Quân, sau lại cải danh thành Bộ Chỉ huy Trung ương
Địa Phương Quân.

         Cuối năm 1951, để chuẩn bị cán bộ cho Quân đội Quốc Gia Việt Nam (QĐQGVN) sẽ
thành lập ồ ạt vào năm 1952, Bộ Quốc Phòng được chỉ thị ban hành Lệnh Động Viên từng phần
thanh niên thuộc lớp tuổi trên 20, có Tú Tài 2 hoặc Văn bằng cao hơn, nhẹ gánh gia đình, phải
nhập ngũ theo học các Khoá đào tạo Sĩ quan Trừ Bị tại Nam Định (miền Bắc) và Thủ Đức (miền
Nam).

                                                                                                                                                                     17
   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22