Page 173 - dh105
P. 173

Xin tạ từ anh, người bạn thám kích sư đoàn 22
Anh, người đồng đội của tôi, mấy mươi năm về trước
Chiếc chiếu rượu bây giờ thành chiếu trống
Những người xưa giờ đã bỏ đi đâu
Còn lại mình tôi, cách nửa địa cầu
Con ngựa lạc đàn ngậm ngùi đất khách…
Vâng, chúng ta không còn có một cái gì ở đấy. Mất mát. Tang
thương. Những phận người thất trận! Những đòn thù. Nhưng
chúng ta có một kho tàng quí giá ở đó. Đó là niềm kiêu hãnh là ở
trong cõi chết để kẻ khác được sống. Là tình đồng đội. Là những
hòn đá tảng quá nặng, trên những đôi chân và thân thể gầy guộc
của người lính khổ miền Nam. Để mãi mãi tôi ngẩng đầu. Dù là tù
tội. Dù mang danh là “ngụy tặc”. Dù bị gán cho “thám báo mổ tim,
mổ gan, hãm hiếp, uống máu người,…” như phe bên kia tuyên
truyền. Dù mang danh là kẻ tị nạn nầy. Ngẩng đầu. Ngẩng đầu.
Ngẩng đầu. Ngẩng đầu dù bò dù lết, dù bị hành hạ tả tơi

…

Tháng ba, người cựu lính Mỹ trở lại VN…
Trở lại để tìm những thứ mà trên cõi đời này, trên đất Mỹ giàu
sang thịnh vượng này, lồng lộng gió tự do, bát ngát mênh mông
tình người và tình đô la này chắc chắn không có.
Đó chính là tình đồng đội
Như câu "khích rượu" của đám lính của tôi trong các cuộc nhậu:
"Tôi hỏi ông thầy, khi ông thầy chết hay bị thương, ai cõng hay
mang xác ông thầy về. Đồng đội hay vợ con cha mẹ?"
Vâng, đồng đội. Chính đồng đội. Đó là lý do tại sao Thế Vũ lại thê
thiết nhớ đồng đội của ông bằng lá thư thứ nhất. Và người cố vấn
Mỹ đã xây trong trái tim mình một ngôi nhà có nhiều phòng dành
cho những người bạn thám kích VN.
Chỉ những kẻ mất hết nhân tính, vô ơn mới xem bạn mình, đồng
đội mình là những con thú tật nguyền, là bọn què quặt hết thời,
đào cả người chết lên để mà bỡn cợt như Ngụy Ngữ bỡn cợt cố
Đại úy dù Nguyễn văn Đương trong hầu hết các truyện của ông ta
trên tạp chí Vấn Đề (2).
Tháng ba người lính Mỹ trở lại VN. Còn tôi, tôi trở lại ngày và
đêm. Tôi trở lại bằng những giấc mơ hay bằng những lúc tôi tủi
nhục, cô đơn lạc loài nhất. Không phải họ "cõng tôi" khi tôi bị
thương mà họ đã dạy tôi về kinh nghiệm chiến trường, về sự gan
dạ, can đảm, cả sự thách đố và tình đồng đội. Thân thể họ gầy
guộc, mà mang cả súng trường, mấy lần cấp số đạn, có khi cả 10
ngày lương khô, và cả bao nhiêu tấn lịch sử oan khiên đè nặng...
Họ giúp tôi đứng lên bằng đôi chân của người lính miền Nam nói
chung, và người lính thám kích của sư đoàn 22 nói riêng.

                                            Trần Hoài Thư

________________________________________________________________________________

ĐA HIỆU 104  Trang 171
   168   169   170   171   172   173   174   175   176   177   178