Page 57 - dh105
P. 57

vào Hội An nương náu trong chùa ăn học. Tôi ra Đà Nẵng tìm cô
vào đầu năm 1968. Nhà cô nghèo, con cháu lại quá đông. Nhiều
đêm tôi phải ngủ đói trên căn gác của một trại cây ở hẻm 220
Hùng Vương, ngang hông phường Thạc Gián. Vài tuần sau, vì
nhà đông đúc, cô đưa tôi đến sống với người anh họ và bà chị
dâu vô cùng khó tánh ở Cỗ Mân, Sơn Chà. Chị dâu tôi khó tánh
đến nỗi, chỉ sau một thời gian ngắn, tôi không chịu đựng được
nữa nên lặng lẽ bỏ đi. Tôi vào chùa Viên Giác. Năm tháng như
mây trời, bao độ hợp tan mang theo những giận hờn, thương
ghét. Cô tôi đã về bên cõi khác nhưng lòng tôi sao vẫn nhớ vẫn
thương. Trên xứ người, nhiều đêm không ngủ được, nhớ lại tiếng
ho của người cô bịnh hoạn, tôi vẫn còn nghe nhức nhối như thuở
mới về thăm. Chiến tranh và nghèo đói đã cướp đi bao thế hệ Việt
Nam vô tội.

Nhưng Đà Nẵng của tôi không chỉ là điêu linh, tang tóc mà còn là
thành phố cảng đẹp tuyệt vời. Những bờ biển uốn cong như mái
tóc của người con gái Việt Nam đang đứng trông ra Thái Bình
Dương bao la bát ngát. Từ eo biển mỹ miều đó những thương
thuyền ngoại quốc đã đến thăm thành phố từ mấy trăm năm
trước. Đà Nẵng của tôi có hàng phượng đỏ hai bên đường Bạch
Đằng, đường Độc Lập với những chiếc ghế đá dọc bờ sông mang

chứng tích của một thời học trò đầy kỷ niệm. Đà Nẵng của tôi có
bãi biển Mỹ Khê (chứ không phải China Beach), với bờ cát trắng
chạy dài và hàng dương vi vu theo gió, có bãi biển Thanh Bình với
những chiếc ghe đánh cá đi về tấp nập và cảnh chợ chiều nhộn
nhịp. Những ngày hè oi bức, tôi và đám bạn vẫn thường ôm đàn
ra ngồi dựa lưng vào những gốc dương liễu dọc bãi biển. Trong

________________________________________________________________________________

ĐA HIỆU 104  Trang 55
   52   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62